Tại sao phải BÃI BỎ nhà tù? - Angela Davis (2/2)
Đây là phiên bản văn bản của tập 83 của podcast Just Another Rant, là phần tiếp theo/cuối cùng của 2 tập về tác phẩm "Are Prisons Obsolete?" (Nhà tù có lỗi thời rồi không?) của Angela Davis. Các bạn có thể nghe trên Youtube hoặc trên các ứng dụng podcast yêu thích của bạn.
Xin chào các bạn đã trở lại với Just Another Rant, mình là
Mai và trong tập 83 hôm nay chúng ta sẽ tiếp tục nói về quyển sách “Nhà tù có lỗi
thời rồi không?” của Angela Davis, cụ thể là chương 4,5 và 6. Lẽ ra là tập này
đăng tuần trước rồi mà tuần trước mình bệnh nên dời sang tuần này. Thì vì đây
là phần tiếp theo của tập trước cho nên nếu bạn chưa nghe tập 82 thì bạn nên đi
nghe tập đó trước rồi hãy quay trở lại đây sau nha. Và cũng như mọi lần,
podcast của tụi mình là 1 podcast rất là cây nhà lá vườn và mình sẽ rất vui nếu
các bạn có thể ủng hộ tụi mình bằng cách, like, share, subscribe nếu bạn coi
trên youtube hay rate 5 sao nếu bạn đang trên Spotify hay app podcast mà bạn
đang dùng. Các bạn cũng đừng quên follow tụi mình trên instagram
@just.another.rant hay trên facebook, tất cả link sẽ ở dưới nếu bạn cần. Tụi
mình cũng đăng nhiều thứ vui vui trên đó lắm á nên lên follow tụi mình cho đông
vui nha. À, quên, trước khi bắt đầu vô tập 83 thì phải thông báo 1 tin vuiiii.
Đó là sắp tới Quỳnh sẽ trở lại với tụi mình và tụi mình sẽ lại có thể nói xàm rồi.
Cho nên là các bạn hãy đón chờ nhiều tập 2 đứa tụi mình nói xàm trong thời gian
sắp tới nha. Ừa, thôi không mất thời gian của mọi người nữa, chúng ta bắt đầu
nói về chủ đề của ngày hôm nay nha.
Thì trong tập 82 chúng ta đã đi qua chương 1, 2, 3 của “Nhà
tù có lỗi thời rồi ko?” của Angela Davis. Thì không biết là các bạn có còn nhớ
không nhưng trong cái phần mình giới thiệu tác phẩm trong tập 82 á, thì mình có
tóm tắt luận điểm của Angela Davis cho việc tại sao phải bãi bỏ nhà tù như sau:
Hệ thống nhà tù là công cụ duy trì chủ nghĩa tư bản, chế độ phụ quyền và chủ
nghĩa phân biệt chủng tộc. Cho nên, bạn không thể vừa có xã hội hậu tư bản, hậu
phụ quyền, hậu phân biệt chủng tộc mà vừa có hệ thống nhà tù được. Tức là, nếu
chúng ta bãi bỏ các hệ thống đàn áp nói trên thì cũng phải bãi bỏ luôn hệ thống
nhà tù.
Thì các bạn có thể thấy là trong chương 1, Angela Davis đặt
ra vấn đề bãi bỏ nhà tù. Qua chương 2 thì đã chứng minh được hệ thống nhà tù
Hoa Kỳ là công cụ duy trì chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, đến nỗi người ta nói
là hệ thống nhà tù Hoa Kỳ sau Nội chiến là chế độ nô lệ tái sinh. Qua chương 3,
thì chúng ta đã chất vấn việc giam cầm một con người và việc cải tạo họ, và thấy
rằng từ những buổi đầu của nhà tù đến hiện nay, thì nhà tù thất bại trong việc
cải tạo và càng ngày càng cho ta thấy là nó không quan tâm đến cải tạo con người.
Vậy thì nếu quay trở lại cái lời giới thiệu của mình tuần trước, thì chúng ta vẫn
còn chưa được nghe gì về: thứ 1 là, yếu tố giới trong hệ thống nhà tù và thứ 2
là, yếu tố chủ nghĩa tư bản. Thì trong chương 4 và 5, Angela Davis sẽ trình bày
về 2 vấn đề này. Còn chương 6 thì sẽ nói về các giải pháp. Bây giờ chúng ta sẽ
đi vào chương 4, mang tên How Gender Structures the Prison System (Giới kết cấu
hệ thống nhà tù như thế nào?). Mình nói trước là chương này có đề cập tới các
chủ đề nặng nề như là hiếp dâm và bạo lực tình dục đối với phụ nữ nha. À, nói
luôn mắc công quên, trong tập này, nếu mình xài chữ “giới” hay “giới tính” thì
mình đều muốn nói đến chữ “gender” trong tiếng Anh nha, còn khi nào mình muốn đề
cập tới khái niệm “sex” (hay là giới tính sinh học) thì mình sẽ nói rõ.
Chương 4: How Gender
Structures the Prison System (Giới kết cấu hệ thống nhà tù như thế nào?)
Angela Davis nói là trong những cuộc thảo luận về hệ thống
nhà tù gần đây, phụ nữ rất ít được nhắc tới, tức là yếu tố giới trong các cuộc
thảo luận về nhà tù vẫn chưa được xem trọng. Và ở đây chúng ta phải cẩn thận,
không nên chỉ nhắc về yếu giới một cách hời hợt, ví dụ như là chèn 1-2 đoạn văn
về nữ tù nhân trong hệ thống nhà tù vào là xong chuyện. Tại vì nếu làm vậy thì
chúng ta vẫn đang nhìn nhận vấn đề nhà tù là vấn đề nam giới, còn phụ nữ trong
nhà tù là vấn đề phụ. Thay vào đó chúng ta phải nhìn thấy rằng: có những chuyện
xảy ra trong nhà tù phụ nữ là đặc biệt của phụ nữ và cũng có những chuyện xảy
ra trong nhà tù nam giới là đặc biệt của nam giới. Và vì vậy, Angela Davis mới
đặt tên chương này là “Giới kết cấu hệ thống nhà tù như thế nào” mà không phải
là “Phụ nữ và hệ thống nhà tù”.
Chúng ta biết về trải nghiệm của nữ tù nhân qua văn học của
họ. Một ví dụ tiêu biểu mà Davis kể cho chúng ta nghe ở đây là hồi ký của Assata
Shakur, một nhà hoạt động chính trị Mỹ và được gọi là “Linh hồn của Quân đội Giải
phóng Da đen”. Vào năm 1977, bà bị kết án tù với tội danh giết một cảnh sát bang
New Jersey. Thì bà bị tù chung thân và vô tù nhưng đến năm 1979 thì trốn tù và chạy
qua Cuba tị nạn và ở đó đến giờ luôn. Năm 1987, thì Assata xuất bản tự truyện của
mình và trong đó có kể về trải nghiệm của bà trong tù, và nhờ đó chúng ta biết
được hoàn cảnh của phụ nữ trong hệ thống nhà tù. Dĩ nhiên, chuyện Assata là một
tù nhân chính trị da đen chắc chắn đã khiến các cơ quan chức năng sử dụng những
hình phạt độc ác một cách khác thường với bà ví dụ như là bị giam trong nhà tù
nam giới, bị chú ý giám sát đặc biệt, vân vân. Nhưng trải nghiệm cá nhân của
Assata cũng phản ánh trải nghiệm chung của nhiều phụ nữ khác, đặc biệt là các nữ
tù nhân người da đen hay người Puerto Rico. Thì một trong những trải nghiệm
chung đó là bị “lục soát khỏa thân” (strip search). Đại loại là nếu bạn là một
nữ tù nhân và bạn bị lục soát khỏa thân, thì bạn sẽ bị bắt lột đồ ra và sẽ có
người giữ tay chân bạn lại rồi chọt ngón tay họ vô âm đạo và đôi khi vừa âm đạo
vừa hậu môn của bạn, để… “lục soát”. Bản thân Davis cũng từng vào tù và bà cũng
nói là mình có thể làm chứng cho các vụ “lục soát khỏa thân” trong nhà tù phụ nữ
ở Mỹ.
Ngoài tự truyện của Assata thì văn học của nữ tù nhân cũng
còn rất nhiều tác giả khác, đa dạng về thể loại. Dù vậy, vai trò trung tâm của
giới trong hệ thống nhà tù vẫn chưa được đề cập đến nhiều. Lời biện hộ thường gặp
nhất là hầu hết tù nhân là nam giới nên không nói về nữ giới nhiều là đúng rồi.
Tuy nhiên, từ những năm 80, ở Hoa Kỳ và trên thế giới, số lượng nữ tù nhân ngày
càng tăng và ở Mỹ, phụ nữ là nhóm tù nhân tăng nhanh nhất. Và vì vậy, chúng ta
cần phải xem xét những khía cạnh tư tưởng và lịch sử của hình phạt nhà nước
(state punishment) dành cho phụ nữ.
Thì từ khoảng cuối thế kỷ 18, hệ thống nhà tù lên ngôi và trở
thành cách trừng phạt mặc định của nhà nước, đầu tiên là ở châu Âu và Mỹ và sau
đó là đến các nước bị thuộc địa. Thì dĩ nhiên là cũng từ lúc này chúng ta mới
có nữ tù nhân, còn trước đó thì không. Chúng ta thấy trong lịch sử, là cách trừng
phạt nữ giới và nam giới đã luôn khác nhau. Davis lưu ý là nhiều phụ nữ không bị
vô tù nhưng chịu hình phạt tương tự trong bệnh viện tâm thần. Nếu nhà tù là nơi
để kiểm soát nam giới thì bệnh viện tâm thần là nơi để kiểm soát nữ giới. Dấu vết
của mối liên hệ với bệnh viện tâm thần vẫn có thể được nhìn thấy trong hệ thống
nhà tù phụ nữ hiện nay ở Mỹ: người ta phân phối thuốc tâm thần cho tù nhân nữ
nhiều hơn tù nhân nam rất nhiều. Ở đây, chúng ta cũng nên lưu ý yếu tố giai cấp
và chủng tộc. Ví dụ như một người phụ nữ giết chồng, mà người phụ nữ này da trắng
và khá giả thì khả năng cao sẽ được xem là bị điên và sẽ bị cho vào bệnh viện
tâm thần nhưng nếu người phụ nữ đó là người da màu và nghèo thì khả năng cao sẽ
được xem như là tội phạm và sẽ bị cho vào tù.
Với vd về bệnh viện tâm thần, Davis muốn nói rằng “hình phạt
nhà nước” (state punishment) dành cho phụ nữ không chỉ gói gọn trong nhà tù mà
nằm trong nhiều thiết chế khác. Ở đây, ta có thể thấy là Davis đang mở rộng cái
khái niệm “hình phạt nhà nước” ra, bao gồm các loại hình phạt khác ngoài hệ thống
nhà tù nhằm kiểm soát, đàn áp các thành phần cho là bất hảo trong xã hội. Thì
ngoài thiết chế bệnh viện tâm thần, thì còn có chế độ nô lệ đối với nô lệ nữ da
đen (có những hình phạt chỉ dành cho phụ nữ đa đen nô lệ thôi, vd hiếp dâm và bạo
lực tình dục), ngoài ra còn có bạo lực gia đình – cũng là một hình thức hình phạt
dùng để kiểm soát phụ nữ được luật pháp cổ súy và tạo điều kiện cho xảy ra, nhất
là ngày xưa nữa. Thì Davis chỉ ra các hình phạt cho phụ nữ này, và nói là chúng
cũng là hình phạt nhà nước. Những hình thức hình phạt này nằm ngoài hệ thống
nhà tù nhưng cũng là các cách mà nhà nước trừng phạt và kiểm soát phụ nữ, cũng
giống như để trừng phạt và kiểm soát nam giới thì nhà nước sử dụng hệ thống nhà
tù.
Cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, nổ ra các phong trào đòi phân
chia nam riêng nữ riêng trong nhà tù. Và từ đó nhà tù phụ nữ ra đời, chứ ban đầu
ko có. Thì nhà tù phụ nữ nó khác biệt so với nhà tù nam giới như thế nào? Nó sẽ
có quản tù và nhân viên là nữ cho nên sẽ an toàn với phụ nữ hơn so với trước đó
phải ở trong tù mà quản tù là nam. Và nhà tù phụ nữ thì được thiết kế nữ tính
hơn với mục đích là cải tạo những người phạm nhân nữ thành những người phụ nữ của
gia đình. Ví dụ như nhà tù cải tạo phụ nữ đầu tiên ở Mỹ thành lập năm 1853 và họ
tuyên bố mục tiêu của mình là đào tạo cho tù nhân vai trò quan trọng của nữ
công gia chánh. Và để làm điều này, họ thiết kế nhà tù có nhà bếp, phòng khách,
thậm chí phòng em bé và họ dạy tù nhân nấu ăn, thêu vá và dọn dẹp nhà cửa. Tuy
nhiên, nếu phụ nữ da trắng được vô những nhà tù này, thì phụ nữ da đen và bản địa
thường bị tống vào nhà tù nam giới. Ở miền nam nước Mỹ sau Nội chiến, thì phụ nữ
da đen khi bị bắt vô tù phải làm việc y như nam giới, không hề có sự giảm nhẹ.
Tóm lại, phương thức trừng phạt “nữ tính hóa” được thiết kế cho phụ nữ gia trắng
chứ ko phải phụ nữ da màu.
Bây giờ chúng ta đến thể kỷ 20 và đầu thể kỷ 21. Ở Hoa Kỳ, số
phụ nữ trong hệ thống nhà tù tăng chóng mặt và nhất là đối với phụ nữ da màu.
Ví dụ như trong nghiên cứu về tù nhân nữ người Mỹ bản địa trong hệ thống nhà tù
bang Montana của Luana Ross thì cô thấy người Mỹ bản địa chiếm 6% dân số nhưng
chiếm đến 17.3% trong nhà tù, đặc biệt là phụ nữ người Mỹ bản địa chiếm 25% tù
nhân nữ bang Montana. Trong khoảng thời gian cuối thể kỷ 20 này, thì vấn đề phụ
nữ trong tù mới được nói đến nhiều hơn nhất là với sự bùng nổ của phong trào nữ
quyền. Tuy nhiên, cũng có những chuyện hết sức chán đời xảy ra. Cụ thể là có những
nổ lực thúc đẩy “bình đẳng” trong nhà tù giữa nam và nữ tù nhân. Davis kể ra 3
vụ việc và mình sẽ không kể lại hết cho các bạn nghe ở đây, nhưng mà đại loại
là có những người thấy là nữ tù nhân bị phạt nhẹ hơn nam nên muốn “bình đẳng”,
yêu cầu phải phạt nữ tù nhân nặng hơn cho giống tù nhân nam.
Cũng trong khoảng thời gian cuối thế kỷ 20, vấn đề bạo lực
tình dục trong nhà tù phụ nữ được nói đến nhiều hơn. Bạo lực tình dục đối với nữ
phạm nhân được bình thường hóa đến mức nó được xem như 1 phần của phạt tù.
Trong báo cáo về bạo hành tình dục đối với phụ nữ trong hệ thống nhà tù Mỹ mang
tên “All too familiar: Sexual abuse of women in US State Prisons”, các tác giả
cho biết: nhiều nhân viên nam hiếp dâm đường âm đạo, đường hậu môn và đường miệng
các tù nhân nữ và tấn công và bạo hành tình dục họ. Những người đàn ông này
không những sử dụng bạo lực thể xác mà còn sử dụng uy quyền của mình để đạt được
cái họ muốn, ví dụ như bằng cách ép tù nhân nữ quan hệ tình dục nếu không đồng
ý sẽ không cho cái này cái họ, hoặc là nếu đồng ý thì sẽ cho cái này cái nọ. Ngoài
ra họ còn lợi dụng lúc làm công tác để quấy rối tình dục tù nhân và xúc phạm họ
bằng lời nói. Đáng sợ hơn là chúng ta biết chắc những người trong hệ thống nhà
tù biết chuyện này xảy ra nhưng để cho nó xảy ra và bình thường hóa nó. Davis
có trích dẫn thêm các báo cáo khác và mình sẽ không kể ra hết nhưng nói chung ở
Hoa Kỳ thì tình trạng bạo lực tình dục đối với tù nhân nữ xảy ra rất nhiều và tệ
hơn so với mặt bằng chung của thế giới.
Như vậy, bạo hành tình dục được thiết chế hóa trong hệ thống
nhà tù và trở thành một phần của hình phạt mà phụ nữ gánh chịu trong tù, ngoài
chuyện bị giam cầm, cướp lấy các quyền tự do và bị bóc lột lao động. Như nhiều
nhà hoạt động xã hội khác đã chỉ ra, chính nhà nước đã trực tiếp bình thường
hóa, hợp thức hóa và cho phép bạo lực tình dục xảy ra đối với phụ nữ trong tù.
Trên luật pháp và ở ngoài tù, hiếp dâm và bạo lực tình dục là tội phạm và bị cấm
nhưng ở trong tù thì được cổ súy, củng cố, cho phép xảy ra hàng loạt. Nếu một
thiết chế sử dụng các công cụ đàn áp của chế độ phụ quyền nhằm để đàn áp phụ nữ
và củng cố cho sự đàn áp đó trong xã hội, nhất là đối với phụ nữ da màu, phụ nữ
chuyển giới, phụ nữ nghèo,… thì thiết chế đó không thể tồn tại trong một xã hội
hậu phụ quyền. Vì vậy, bất kỳ ai đấu tranh bãi bỏ chế độ phụ quyền, cần phải đồng
thời đấu tranh bãi bỏ nhà tù.
Chương 5: The Prison
Industrial Complex (Tổ hợp công nghiệp nhà tù)
Chúng ta đến với chương 5, mang tên Tổ hợp công nghiệp nhà
tù. Thì từ chương 2 đến chương 4, chúng ta đã đi qua rất là nhiều những hình ảnh
dã man trong tù, những số liệu không thể tưởng tượng được về hệ thống nhà tù
Hoa Kỳ. Và chắc chắn chúng ta sẽ tự hỏi là: Làm sao chuyện này có thể xảy ra?
Làm sao chuyện này có thể tiếp tục xảy ra như ở hiện tại? Lí do chính và to bự mà
những chuyện này có thể xảy ra là tư bản. Và mình nghĩ đây cũng là lí do Angela
Davis để chương 5 ở vị trí này. Ok, chúng ta bắt đầu ha.
Tổ hợp công nghiệp nhà tù là từ dùng để chỉ mạng lưới các mối
quan hệ giữa các ngành công nghiệp, các doanh nghiệp tư nhân, chính phủ, các
phương tiện truyền thông và hệ thống nhà tù. Để tạo ra lợi nhuận từ hệ thống
nhà tù, không thể nào ai trong số họ có thể hoạt động riêng lẻ được mà họ phải
kết nối với nhau để cùng nhau khai thác lợi nhuận, cho nên mới cho ra đời tổ hợp
công nghiệp nhà tù. Ngành công nghiệp nhà tù ở Hoa Kỳ là một ngành công nghiệp
lớn với lợi nhuận ước tính hằng năm là khoảng 4 tỷ đô, và cái này là chỉ tính
riêng các nhà tù tư nhân. Câu hỏi đặt ra là, người ta tạo ra lợi nhuận từ nhà
tù như thế nào? Lợi nhuận ở đâu mà ra?
Đầu tiên, chúng ta phải nói đến tổ hợp công nghiệp quân sự (là
cũng giống tổ hợp công nghiệp nhà tù luôn nhưng mà ngành quân sự). Thì Angela
Davis mới là tổ hợp công nghiệp quân sự và tổ hợp công nghiệp nhà tù có mối
quan hệ chặt chẽ và cộng sinh với nhau. 2 tổ hợp công nghiệp này ủng hộ và thúc
đẩy nhau và thường chia sẻ công nghệ kỹ thuật với nhau. Ví dụ như tổ hợp công
nghiệp nhà tù là thị trường cho tổ hợp công nghiệp quân sự, với các mặt hàng vũ
khí, thiết bị, máy móc giám sát chẳng hạn. Với ngành công nghiệp sản xuất vũ
khí thì những chính sách “mạnh tay với tội phạm” sẽ là cơ hội cho bạn kiếm được
nhiều lợi nhuận hơn. Đơn giản là bây giờ người ta có nhu cầu “mạnh tay với tội
phạm” và bạn đáp ứng nhu cầu đó bằng cách cung cấp những vũ khí mới, những máy
móc tinh vi mới thì bạn sẽ giàu. Và với vũ khí mới và chính sách đối với tội phạm
mới thì sẽ tăng số tù nhân và từ đó tăng số nhà tù lên, thì tức là tổ hợp công
nghiệp nhà tù mở rộng quy mô ra hơn, phát triển nhanh hơn và thu hút được nhiều
nguồn vốn hơn nữa. Và tiếp tục cái vòng tròn đó, cả 2 tổ hợp công nghiệp này hưởng
lợi từ nhau. Điểm tương đồng giữa 2 tổ hợp công nghiệp này là cả 2 đều tạo ra lợi
nhuận từ sự phá hủy, tàn phá đối với xã hội. Nếu những cộng đồng nghèo, da màu
hay thậm chí người dân của những quốc gia khác bị tàn phá bởi tổ hợp công nghiệp
nhà tù và quân sự thì sự tàn phá này mang lại lợi nhuận rất lớn cho các doanh
nghiệp, các chính trị gia, các cơ quan nhà nước có liên quan. Vậy, một trong những
cách tổ hợp công nghiệp nhà tù tạo ra lợi nhuận là trong mối quan hệ cộng sinh
của nó với tổ hợp công nghiệp quân sự.
Ngành công nghiệp thứ 2 tạo ra lợi nhuận từ tù nhân là ngành
công nghiệp y tế dược phẩm. Ở Hoa Kỳ, sau chiến tranh thế giới thứ 2 thì các
công ty dược phẩm thử nghiệm sản phẩm lên tù nhân. Thử nghiệm thuốc lên tù nhân
thì các doanh nghiệp có thể lách được rất nhiều quy định mà nếu thử nghiệm trên
người bình thường sẽ không được cho phép hoặc bị coi là phi đạo đức hoặc đơn giản
là đắt tiền hơn. Những thử nghiệm này đã giúp họ kiếm ra rất nhiều tiền, mặc
cho những tổn hại lên cơ thể của tù nhân. Một số doanh nghiệp dược phẩm trục lợi
từ thử nghiệm dược phẩm phi đạo đức lên tù nhân là Johnson and Johnson, Ortho
Pharmaceutical và Dow Chemical.
Thúc đẩy bởi lợi nhuận, hệ thống y tế Hoa Kỳ bắt đầu tư hữu
hóa từ những năm 80-90 và nếu các bạn để ý, đây cũng là thời gian các chính
sách “mạnh tay với tội phạm” bắt đầu và số nhà tù và tù nhân tăng vọt ở Mỹ. Sự
tư hữu hóa hệ thống y tế đẩy những cộng đồng nghèo và không có điều kiện nhất đến
gần với con đường phạm tội hơn. Những người nghèo mà bây giờ lỡ bị bệnh hay tai
nạn gì đó mà tiền viện phí, tiền thuốc quá đắt, không được nhà nước lo; thì họ
bị đẩy vào thế đường cùng ví dụ như phải đi ăn cắp, đi buôn ma túy, nói chung
là phải vi phạm pháp luật để kiếm tiền. Và khi họ bị đẩy vào thế đó thì lại có
các chính sách “mạnh tay với tội phạm”, sẵn sàng hốt họ vào tù. Và khi vào tù họ
trở thành người lao động cho các doanh nghiệp. Lao động tù nhân là một nguồn lợi
rất lớn cho các doanh nghiệp. Bởi vì họ không có công đoàn, họ không có cách biệt
ngôn ngữ như lao động nước ngoài, họ rẻ hơn lao động bình thường rất nhiều, bạn
không cần phải trả tiền bảo hiểm cho họ, họ sẽ không bao giờ đình công hay đòi
tăng lương cả, vân vân. Thì với nguồn lao động rẻ và tiện lợi như vậy, nhà tù
trở thành địa điểm lí tưởng cho doanh nghiệp tư nhân tìm lực lượng lao động. Như
vậy, ngành công nghiệp y tế hợp tác chặt chẽ với hệ thống nhà tù để tạo ra lợi
nhuận cho nhau và cho các ngành công nghiệp khác nữa.
Một ngành khác cũng bắt tay với tổ hợp công nghiệp nhà tù để
tạo ra lợi nhuận là truyền thông. Trong thập niên 90, tin tức tội phạm là chủ đề
số 1 trên các chương trình tin tức buổi tối. Các kênh truyền hình tranh nhau
đưa tin giết người, tội phạm và cổ súy cho suy nghĩ là ở Mỹ tội phạm ngày càng
nhiều và không thể kiểm soát nổi. Từ năm 1990 – 1998, số tin giết người lại
tăng lên gần 4 lần, mặc dù trong thực tế, tỷ lệ giết người trên cả nước giảm 1
nửa.
Chưa dừng lại ở đó, điều mà làm hệ thống nhà tù ở Mỹ trở nên
tệ hơn rất nhiều đó là sự tư hữu hóa nhà tù. Khi mà nhà nước sử dụng dịch vụ
nhà tù của tư nhân thì nhà nước sẽ trả tiền cho các công ty tư nhân này để họ
quản lý nhà tù giùm. Thì với những công ty tư nhân này, càng giữ tù nhân lâu
bao nhiêu thì sẽ được thêm tiền bấy nhiêu, tức là họ có động lực kinh tế để giữ
tù nhân ở lại trong tù lâu nhất có thể. Ví dụ như ở Texas, ở thời điểm viết cuốn
sách này thì có 34 nhà tù nhà nước sở hữu nhưng được vận hành bởi tư nhân. Và
những nhà tù này tạo ra lợi nhuận khoảng 80 triệu đô mỗi năm cho Texas.
Davis kể về một vụ scandal 1997, trên truyền hình phát sóng một
đoạn video quay cảnh tù nhân bị đối xử trong 1 nhà tù được vận hành bởi công ty
tư nhân. Và theo lời của tù nhân thì cái video đó chỉ là 1 phần thôi, thực tế
còn ghê hơn nữa. Scandal này khiến mọi người đặt câu hỏi về những gì xảy ra
trong nhà tù vận hành bởi tư nhân và ảnh hưởng của tư hữu hóa hệ thống nhà tù. Đáng
lo hơn là mô hình tư hữu hóa nhà tù càng ngày càng trở nên phổ biến hơn không
chỉ ở Mỹ mà ở các quốc gia khác như Úc, Anh, Nam Phi, các nước châu Âu,… Ở đây
Davis kể ra rất là nhiều số liệu luôn mà mình không tiện đọc ra nhưng mà thôi,
cứ biết là nhiều đi.
Với ngành công nghiệp nhà tù mở rộng quy mô lớn như vậy thì
ngày càng nhiều các ngành công nghiệp khác bắt đầu bán hàng, trao đổi với nhà
tù và khám phá ra những cách kiếm tiền mới từ nhà tù. Ví dụ như ngành công nghiệp
thực phẩm, ngành công nghiệp hóa chất tẩy rửa, ngành điện tử, thông tin,.. Davis
nói là cho dù có dẹp nhà tù tư nhân đi nữa thì hệ thống nhà tù công hữu nó đã
quá tràn ngập trong mạng lưới các dịch vụ và sản phẩm của tư nhân rồi. Cho dù
quá trình tư hữu hóa nhà tù không xảy ra vào những năm 80 trở đi thì hệ thống
nhà tù nó cũng đã không thể tách khỏi doanh nghiệp tư nhân rồi. Như vậy, nhà tù
công hữu hay tư hữu cũng đều gắn chặt với kinh tế thị trường và đóng góp một phần
quan trọng trong nguồn lợi nhuận tư bản.
Davis nói là những người hoạt động xã hội ở thời điểm hiện
nay, phải có nhiệm vụ đặt câu hỏi về mối quan hệ giữa chủ nghĩa tư bản toàn cầu
và sự lan rộng của mô hình nhà tù kiểu Mỹ trên thế giới. Ngành công nghiệp nhà
tù toàn cầu bị thống trị bởi Hoa Kỳ. Hoa Kỳ có ảnh hưởng rất lớn lên các mặt
hàng, sản phẩm, ý tưởng, dịch vụ liên quan đến nhà tù và họ marketing những thứ
này đến các quốc gia khác. Ví dụ như mô hình nhà tù supermax mà tập trước có
nói, đã lan ra một số nước khác dưới ảnh hưởng của Mỹ. Điều đáng lo ngại là, cuốn
sách này xuất bản năm 2003 tức là sau 11/09/2001. Thì từ ngay sau đó chúng ta
đã thấy hệ thống nhà tù Hoa Kỳ tiếp tay duy trì chủ nghĩa phân biệt chủng tộc đối
với người đạo Islam và người gốc Trung Đông. Và nếu chúng ta không chịu nhìn nhận
vai trò của hệ thống nhà tù trong việc duy trì chủ nghĩa phân biệt chủng tộc mà
ngược lại để hệ thống này lan ra các quốc gia khác, ảnh hưởng đến các cộng đồng
khác thì chúng ta sẽ càng ngày càng xa một tương lai bình đẳng và công lý.
Davis muốn người đọc phải nghĩ rộng ra đến tác động của hệ
thống nhà tù Mỹ lên thế giới, và nghĩ rộng ra đến hệ thống nhà tù trên toàn cầu.
Phong trào bãi bỏ nhà tù phải chống lại chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ
nghĩa tư bản, chế độ phụ quyền. Phong trào bãi bỏ nhà tù đấu tranh cho việc bãi
bỏ nhà tù với tư cách là hình thức trừng phạt nổi trội, mặc định và đồng thời đoàn
kết với hàng triệu người đằng sau song sắt. Vậy thì câu hỏi đặt ra là chúng ta
phải làm gì? Giải pháp của những người trong phong trào bãi bỏ nhà tù là gì? Davis
trả lời trong chương 6.
Chương 6: Abolitionist
Alternatives (Giải pháp thay thế của phong trào bãi bỏ nhà tù)
Trong chương này, Angela Davis nói về các giải pháp thay thế
cho nhà tù. Nếu không có nhà tù thì chúng ta phải làm gì? Điều đầu tiên bà nhìn
thấy đó là vì nhà tù đóng vai trò quá chủ chốt trong xã hội hiện tại của chúng
ta nên khi câu hỏi được đặt ra nhiều người sẽ không nghĩ ra được gì khác, ngoài
các giải pháp tương tự như nhà tù. Để nghĩ ra được giải pháp chúng ta cần nhìn
vấn đề không chỉ ở nhà tù mà các vấn đề gốc rễ, toàn bộ tổ hợp công nghiệp nhà
tù và các hệ thống đàn áp khác trong xã hội. Khi đó, chúng ta sẽ nhận ra là
không thể có 1 giải pháp thay thế cho nhà tù được.
Chúng ta có thể đặt việc giảm số người vào tù làm chiến thuật
trọng tâm thì chúng ta sẽ có giải pháp gì? Phát triển giáo dục ở mọi cấp. Xây dựng
hệ thống y tế công cộng miễn phí cho tất cả mọi người (bao gồm cả sức khỏe tâm
lý). Xây dựng hệ thống pháp lý dựa trên sửa đổi, phục hồi thay vì trừng phạt và
trả thù. Trong hệ thống giáo dục, y tế và công lý mới, cần phải giải quyết những
vấn đề phân biệt chủng tộc, giai cấp, nam nữ,… phải đảm bảo, các thiết chế này
phục vụ tất cả mọi người. Những giải
pháp nào mà không nhắm đến giải quyết các chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, sự thống
trị của nam giới, thiên kiến giai cấp, và các hệ thống đàn áp khác, thì đều sẽ
thất bại và không thúc đẩy mục tiêu bãi bỏ nhà tù.
Với trường hợp Hoa Kỳ, chúng ta có thể nghĩ đến vấn đề người
nhập cư không giấy tờ bị bắt và bỏ vào trong những trại tập trung và nghĩ ra
các giải pháp để xóa bỏ vấn nạn này. Chúng ta cần thật sự suy nghĩ về phi tội
phạm hóa (decriminalize) những hành vi mà hiện nay vẫn được cho là phạm tội. Ví
dụ như mua bán, sử dụng cần sa hay là mại dâm hay là quan hệ tình dục đồng giới
ở một số nước. Ngoài ra chúng ta có thể nghĩ đến các chương trình làm việc, đòi
tăng lương, trợ cấp xã hội, phòng chống bạo lực giới,…
Rồi, đến đây sẽ có người hỏi: Nếu bãi bỏ nhà tù thì còn những
kẻ tội phạm tệ nhất ví dụ như những kẻ hiếp dâm hay giết người hàng loạt thì
sao? Thì thứ 1, cho dù nếu cách tốt nhất để giữ an ninh cho cộng đồng là nhốt cái
kẻ giết người hàng loạt này hay kẻ hiếp dâm nọ lại, thì tại sao chúng ta lại áp
dụng hình phạt của những kẻ đó cho tất cả các tù nhân khác? Cho nên cho dù có
nhà tù có là cách hiệu quả nhất để bảo vệ cộng đồng khỏi một vài kẻ tội phạm
thì chúng ta vẫn nên bãi bỏ hệ thống nhà tù. Và thứ 2, ngay cả đối với những
người phạm tội nặng thì cũng có những biện pháp thay thế mà tập trung vào sửa
chửa sai lầm hơn là trả thù và trừng phạt. Chúng ta phải rời bỏ mô hình công lý
dựa trên tội ác và trừng phạt và hướng đến một mô hình mà người phạm pháp không
được xem như 1 kẻ tội phạm mà là 1 người đã làm sai và có nhiệm vụ, trách nhiệm
sửa chửa việc sai mình làm. Những biện pháp này đòi hỏi chúng ta phải kiên nhẫn,
thử nghiệm và tìm tòi khám phá liên tục.
Và yeah, vậy là xong chương 6 của “Nhà tù có lỗi thời rồi
không?” của Angela Davis rồi. Bà ấy không có liệt kê ra nhiều giải pháp nhất có
thể mà chỉ định hướng cái cách suy nghĩ để cho người đọc nghĩ ra giải pháp. Và
tuy là cuốn sách này nói về hệ thống nhà tù Mỹ nhưng mình hi vọng là các bạn
cũng học được rất nhiều điều từ nó. Và một lần nữa mình cực kỳ gợi ý các bạn
tìm đọc quyển sách này tại vì nó thật sự là một cuốn sách rất tốt để bắt đầu tiếp
cận và suy nghĩ về bãi bỏ nhà tù. Và nếu có góp ý, trao đổi gì thì hãy comment
cho mình biết ở phía dưới hoặc nhắn tin trên insta cho tụi mình cũng được. Mình
hẹn gặp lại các bạn trong tập tiếp theo nha, hi vọng là lúc đó sẽ được hội ngộ
với Quỳnh ha. Ok, bye.
Comments
Post a Comment