Giấc mơ của một người đàn ông kỳ quặc - Dostoyevsky

Đây là truyện ngắn đầu tiên (?) mình dịch. Mình 17 (16?) tuổi. Bây giờ 23, nhìn lại file bàn dịch này, và không hiểu tại sao, trong một thời gian rất lâu, mình đã cảm thấy rất xấu hổ về nó, dù chưa từng nhận 1 lời nhận xét tiêu cực nào về nó (ngược lại, mình đã nhận lời động viên, nhận xét tích cực từ vài bạn đọc hồi đó). Bản dịch này, ngây thơ thế nào đi nữa, đã từng là niềm tự hào của mình, vì lý do nào mà sau đó nó trở thành nỗi xấu hổ, vì lý do nào mà mình cảm thấy phải xóa hết đi? Mình không rõ, nhưng chắc chắn, không phải vì 1 lý do duy nhất, mà phải là một tập hợp nhiều yếu tố mà mình vẫn đang cố lần dò manh mối. 

Mình vẫn không dám đọc lại bản dịch này (cho nên chất lượng không bảo đảm, mình nghĩ nếu dám đọc lại thì mình chắc sẽ thấy dịch không hay lắm nhưng không quá tệ). Nhưng một niềm tin: mình phải post nó lại trên đây, để bắt đầu hiểu bản thân mình, lịch sử của con người mình, bắt đầu bằng nỗi nhục. 

Mình dịch từ bản tiếng Anh. Bản dịch tiếng Việt từ tiếng Nga có tồn tại, các bạn có thể tìm "Giấc mơ của kẻ nực cười" của dịch giả Đức Mẫn, chắc sẽ có trên mạng. 

Mai, 01.07.23

Link google doc:

https://drive.google.com/drive/folders/1rynvreULfbSCi_PH2VXP2rM8Yazv1fFc?usp=sharing

La voie du silence (1903) - Frantisek Kupka

GIẤC MƠ CỦA MỘT NGƯỜI ĐÀN ÔNG KỲ QUẶC

FYODOR DOSTOEVSKY

Người dịch: Mai


I


Tôi là một người đàn ông kỳ quặc. Giờ thì người ta nói tôi điên luôn rồi. Đó hẳn là một bước tiến, nếu tôi không còn kì quặc trong mắt họ như trước. Nhưng giờ tôi không còn giận dữ, bây giờ với tôi họ đều thật thân thương, và thậm chí khi họ cười nhạo tôi – ngay cả lúc đó, họ vẫn đặt biệt thân thương trong mắt tôi. Tôi sẽ cười với họ, không hẳn là cười bản thân tôi, mà là vì tình thương cho họ, nếu nó không quá buồn cho tôi để nhìn họ. Buồn vì họ không biết được sự thật, và tôi thì biết sự thật. Ôi, thật là khó khăn khi phải là người duy nhất biết được sự thật! Nhưng họ không hiểu điều đó. Không, họ sẽ chẳng hiểu được.

Trước đây, tôi đau buồn vì tôi trông kỳ quặc. Không phải ‘trông’, mà là đúng như vậy. Tôi đã luôn kỳ quặc và tôi biết điều đó, có thể là ngay khi chào đời. Có thể từ khi lên bảy tôi đã biết rằng tôi rất kỳ quặc. Rồi tôi đến trường, rồi lên đại học, và sao nữa – càng học nhiều, tôi càng nhận ra là mình kỳ quặc. Cho nên với tôi, toàn bộ việc học ở đại học của tôi tồn tại duy chỉ để chứng minh cho tôi thấy, càng đi sâu vào học hành thì tôi càng kỳ quặc hơn. Và tương tự việc học, cuộc sống cũng như vậy. Mỗi năm trôi qua sự nhận thức đó lớn lên và mạnh lên trong tôi, rằng sự hiện diện của tôi trên mọi phương diện đều kỳ quặc. Tôi luôn bị mọi người trêu đùa. Nhưng không ai trọng họ biết hay nghi ngờ rằng, nếu có ai trên hành tinh nhận thức rõ hơn tất cả mọi người về sự kỳ quặc của tôi, người đó chính là bản thân tôi, và đó là điều khó chịu nhất với tôi, rằng họ không biết điều ấy, nhưng tôi mới chính là kẻ đáng phải bị đổ lỗi: Tôi đã luôn rất tự hào rằng tôi chưa bao giờ thú nhận chuyện đó với bất kỳ ai với bất kỳ giá nào. Cái tôi ấy lớn lên trong tôi qua năm tháng, và nếu chăng nó có xảy ra, rằng tôi cho phép bản thân thú nhận điều đó với ai đó rằng tôi thật sự kỳ quặc, tôi nghĩ ngay đêm đó tôi sẽ bắn vỡ sọ mình với một khẩu súng lục. Ôi, tôi đã khổ biết bao trong những năm tháng tuổi trẻ vì không thể kiềm chế bản thân và đột nhiên thú nhận điều ấy với bạn hữu của mình. Nhưng một khi tôi chạm đến mốc tuổi trưởng thành, tôi trở nên bình tĩnh hơn vì một lí do nào đó, mặc dù với mỗi năm trôi qua tôi càng nhận thấy rõ hơn phẩm chất tệ hại này của mình. Chính xác là vì một lí do nào đó, bởi vì cho tới nay tôi vẫn không thể hiểu tại sao. Có thể vì một nỗi đau to lớn đang lớn dần trong tâm hồn tôi trong một hoàn cảnh to lớn hơn tất cả những gì thuộc về tôi: Ấy là, sự kết tội đang xâm chiếm lấy tôi, rằng mọi thứ trên thế giới đều vô nghĩa. Tôi đã lường trước được nó rất lâu về trước, nhưng sự kết tội ấy đột nhiên đến với tôi đầy đủ nhất vào năm ngoái. Tôi bỗng dưng cảm thấy nó chẳng có ý nghĩa gì với tôi nếu thế giới này tồn tại hay không. Tôi bắt đầu cảm nhận và nhận biết với cả tâm hồn mình rằng với tôi, không gì tồn tại. Ban đầu tôi nghĩ rằng đã từng có nhiều thứ tồn tại, nhưng rồi tôi nhận ra rằng cũng chẳng có gì tồn tại lúc trước, vì một lí do nào đó tôi cảm thấy như vậy. Từng chút một tôi bị thuyết phục rằng sẽ cũng chẳng có thứ gì tồn tại. Nhưng rồi tôi chợt thôi giận dữ với mọi người và bắt đầu gần như không quan tâm tới họ nữa. Thật vậy, điều đó trở nên hiển hiên ngay cả trong những chuyện nhỏ nhặt nhất: Ví dụ, tôi sẽ đi xuống phố và va phải ai đó. Không phải là vì tôi mãi mê suy nghĩ, tôi có thể suy nghĩ về cái gì được chứ? Tôi đã hoàn toàn dừng suy nghĩ: mọi thứ đều vô nghĩa với tôi. Và nếu tôi có giải đáp được những câu hỏi đó thì cũng ổn thôi – ôi, tôi chưa từng giải đáp được một câu hỏi nào và chúng luôn có quá nhiều. Nhưng mọi thứ bắt đầu trở nên vô nghĩa với tôi, và rồi những câu hỏi cũng biến đi đâu mất.

Và sau đó, tôi đã biết được sự thật. Tôi biết được sự thật vào tháng 11 trước, chính xác là ngày 3 tháng 11, và từ đó tôi ghi nhớ mọi khoảnh khắc. Đó là một buổi chiều u tối, u tối nhất có thể. Tôi đang trên đường về nhà, khoảng 10 đến 11 giờ, và tôi nhớ tôi đã chính xác nghĩ rằng không có thời gian nào u tối hơn nữa. Kể cả về mặt thể xác. Mưa trút xuống cả ngày và đó là cơn mưa lạnh và u tối nhất, tôi nhớ điều này, với một sự căm ghét rõ ràng với con người và bây giờ, giữa 10 và 11 giờ, nó tự nhiên tạnh, và một sự ẩm ướt thế chỗ. Ẩm và lạnh hơn cả khi trời đang mưa, và một loại hơi nước bốc lên từ mọi thứ, từ mọi viên đá trên đường và từ mọi con hẻm, nếu bạn nhìn xa vào sự sâu thẳm của con đường. Tôi đột nhiên tưởng tượng rằng nếu đèn bị tắt ở mọi nơi, nó sẽ vui hơn, và với những ngọn đèn khí con tim trở nên buồn hơn, vì chúng thắp sáng tất cả. Tôi gần như chưa ăn tối hôm ấy và từ chiều sớm đã ngồi với một kĩ sư và 2 người bạn nữa. Tôi giữ im lặng và họ có vẻ chán ngấy tôi. Họ nói về cái gì đó sôi nổi và tự nhiên trở nên sôi nổi hơn. Nhưng nó không có ý nghĩa gì với họ, tôi có thể thấy điều đó, và họ chỉ sôi nổi vậy thôi. Tôi đột nhiên bảo họ rằng: “Các ông,” tôi nói, “nó không có ý nghĩa gì với các ông.” Họ không cảm thấy xúc phạm nhưng họ bắt đầu cười vào mặt tôi. Vì tôi nói điều đó không phải để quở mắng họ và đơn thuần vì nó không có ý nghĩa gì với tôi. Và họ có thể thấy rằng nó không có ý nghĩa gì với tôi, và thấy nó vui.

Khi tôi trên đường đang suy nghĩ về những ngọn đèn khí, tôi nhìn lên bầu trời. Trời vẫn rất tối, nhưng ta vẫn có thẻ thấy rõ những đám mây bị xé toạc và những hố đen không đáy giữ chúng. Đột nhiên giữa một trong những hố đen ấy tôi để ý tấy một ngôi sao và bắt đầu ngắm nó chăm chú. Vì ngôi sao nhỏ này cho tôi một ý tưởng: Tôi quyết định sẽ kết liễu mình đêm ấy. Tôi đã quyết định một cách chắc chắn việc ấy 2 tháng trước và, nghèo như tôi, đã mua được một khẩu súng lục tuyệt vời và nạp đạn vào đúng ngày hôm đó. Nhưng 2 tháng trôi qua và khẩu súng vẫn nằm trong ngăn kéo, nhưng nó thật vô nghĩa với tôi nên tôi muốn chờ một khoảnh khắc khi nó bớt vô nghĩa hơn – tại sao, tôi không biết. Và cho nên, trong suốt 2 tháng, trở về nhà mỗi tối, tôi nghĩ tôi sẽ bắn chết mình. Tôi chờ đợi một khoảnh khắc. Và bây giờ ngôi sao nhỏ này đã cho tôi một ý tưởng, và tôi quyết định hôm nay sẽ là đêm ấy. Và tại sao ngôi sao cho tôi ý tưởng ấy – Tôi không biết.

Và rồi, khi tôi nhìn lên bầu trời, cô bé này đột nhiên nắm khuỷu tay tôi. Con đường vắng và gần như không có ai xung quanh. Đằng xa có một tên lái xe ngựa đang ngủ trong chiếc xe của hắn. Đứa bé vào khoảng 8 tuổi, với một chiếc khăn đeo trên đầu và mặc một cái váy nghèo nàn thấm đẫm nước, nhưng tôi đặc biệt nhớ đôi giày ướt và rách nát của nó, và tôi nhớ tới chúng lúc này. Cô bé bỗng dưng kéo lấy khuỷu tay tôi và gọi to. Cô không khóc, nhưng đứt quãng la lên từng chữ mà cô không phát âm rõ ràng được hẳn là vì cô bé đang lạnh và run bần bật. Đứa bé đang hốt hoảng vì một cái gì đó và la lên tuyệt vọng: “Mama! Mama!” Tôi quay mặt lại nhìn cô bé, nhưng không nói một lời và bỏ đi, nhưng cô bé chạy theo và kéo lấy tôi, và trong giọng nói của cô có một âm thanh mà những đứa trẻ phát ra khi sợ hãi, cho thấy nỗi tuyệt vọng. Tôi biết thứ âm thanh đó. Mặc dù cô bé không nói hết mọi từ, tôi hiểu rằng mẹ cô bé đang hấp hối nơi nào đó hoặc chuyện gì đó đã xảy ra với họ ở đó, và cô bé phải chạy ra để tìm ai đó, hoặc cái gì đó để cứu mẹ mình. Nhưng tôi không đi với cô bé, ngược lại đột nhiên có ý nghĩa đuổi cô bé đi. Đầu tiên tôi bảo cô bé biến đi và tìm một viên cảnh sát. Nhưng cô bé bỗng dưng chắp tay lại, thút thít, nghẹn ngào, tiếp tục chạy bên tôi và không chịu để tôi đi. Và lúc đó tôi dậm chân thật mạnh trước cô bé và quát. Cô bé thốt lên: “Thưa ông! Thưa ông!...” nhưng rồi đột nhiên cô ấy bỏ tôi và chạy băng qua bên kia đường: một người qua đường xuất hiện ở đó và có lẽ cô bé bỏ tôi để chạy đến chỗ anh ta.

Tôi lên căn hộ của mình ở tầng năm. Tôi sống trong một căn hộ có sẵn nội thất. Nó là một căn phòng nhỏ và nghèo nàn, với một cửa sổ gác mái hình bán nguyệt. Tôi có một chiếc sofa bọc vải dầu và một cái bàn với vài quyển sách trên đó, 2 cái ghế, một chiếc ghế bành cũ nhất có thể nhưng lại là ghế Voltaire. Tôi ngồi xuống, thắp một cây nến và bắt đầu suy nghĩ. Cạnh bên, trong một căn phòng khác, đằng sau tấm vách ngăn, một cảnh hỗn loạn đang diễn ra. Nó đã kéo dài suốt hai ngày. Một thuyền trưởng đã về hưu sống bên đó, và ông ta có khách – khoảng sáu tên, uống vodka và chơi xì dách với cọc bài cũ. Đêm trước họ có một trận ẩu đã, và tôi biết rằng hai trong số họ đã giựt lấy tóc nhau một lúc lâu. Bà chủ nhà muốn than phiền nhưng lại sợ gã thuyền trưởng. Người duy nhất còn ở thuê trong những căn hộ có sẵn nội thất này là một phụ nữ nhỏ gầy, một người phụ nữ xa xứ có chồng trong quân đội và ba đứa con nhỏ đang bệnh của cô. Cô và những đứa con của cô cũng sợ gã thuyền trưởng tới mức ngất đi, run sợ và ôm lấy nhau cả đêm, đứa nhỏ nhất ngất đi vì sợ. Gã thuyền trưởng này, tôi biết chắc, đôi khi chặn đường lữ khách ở Nevsky Prospect và xin tiền từ họ. Họ không màng tới ông ta, nhưng lạ thay (đây là lí do vì sao tôi đang kể chuyện này), trong cả tháng trời từ lúc ông ta sống với chúng tôi, gã thuyền trưởng chưa bao giờ làm tôi bực dọc. Đơn nhiên, tôi tránh làm thân với ông ta từ ngày đầu tiên, và bản thân ông ta cũng chán ngấy tôi từ ngày đầu tiên, nhưng dù họ quát tháo cỡ nào đằng sau bức vách ngăn, và dù có bao nhiêu người trong số họ - điều ấy vẫn không có ý nghĩa gì với tôi. Tôi ngồi cả đêm và chẳng thèm nghe họ - đến giờ tôi gần như quên về họ. Tôi không ngủ từ tối cho đến lúc bình minh, chuyện đó kéo dài như vậy được một năm rồi. Tôi ngồi cả đêm tại chiếc bàn, trên chiếc ghế bành và không làm gì. Tôi chỉ đọc sách vào ban ngày. Tôi ngồi và thậm chí chẳng suy nghĩ gì, chỉ vậy thôi, một vài ý nghĩ lẩn quẩn trong đầu và rồi biến đi. Cả cây nến cháy sạch qua một đêm. Tôi ngồi im lặng tại chiếc bàn, lấy khẩu súng lục ra, và đặt nó trước mặt mình. Trong lúc đặt nó ở đó, tôi nhớ đã tự vấn mình: “Sẽ như vậy sao?” và tự trả lời một cách khá chắc chắn: “Phải.” Nghĩa là tôi sẽ tự bắn chết mình. Tôi biết chắc tôi sẽ bắn chết mình ngay đêm đó, nhưng tôi sẽ ngồi ở đây bao lâu trước khi làm việc ấy – cái đó tôi không biết. Và dĩ nhiên tôi sẽ bắn chết mình nếu không phải vì cô bé ấy.


II


Bạn thấy đấy: dù không thứ gì có ý nghĩa với tôi nữa, tôi vẫn có thể cảm thấy sự đau đớn. Ví dụ nếu ai đó đánh tôi, tôi sẽ thấy đau. Cũng như trong phương diện đạo đức: nếu chuyện gì đáng thương xót xảy ra, tôi sẽ cảm thấy thương xót, chỉ là nó không có ý nghĩa gì với tôi trên cõi đời nãy. Và đêm ấy tôi cảm thấy thương xót: tôi lẽ ra phải giúp cô bé. Vậy thì tại sao, tôi lại không giúp đứa trẻ ấy? Một ý nghĩ đến với tôi lúc ấy: trong lúc cô bé đang kéo và gọi tôi, một câu hỏi đột nhiên xuất hiện trước mắt tôi, và tôi đã không thể giải đáp được. Câu hỏi vẩn vơ, nhưng làm tôi bực bội. Tôi bực vì một kết luận rằng, nếu tôi tự tử thành công đêm ấy, nó sẽ kéo theo rằng, mọi thứ trên thế giới này sẽ phải càng không có ý nghĩa gì với tôi hơn bao giờ. Vậy thì tại sao, tôi lại đột nhiên cảm thấy một thứ có ý nghĩa, là tôi đã thương xót cô bé? Tôi nhớ rằng tôi đã thương xót đứa bé đó rất nhiều; tới nỗi thậm chí cảm thấy một sự đau đớn lạ thường, khá khó tin trong hoàn cảnh của tôi. Thực lòng, tôi không thể diễn tả cái cảm giác thoáng qua mà tôi cảm thấy lúc đó một cách tốt hơn, nhưng cảm giác ấy tiếp tục cả lúc khi tôi về nhà, khi tôi ngồi trước cái bàn của mình, và tôi cảm thấy cực kì bực bội, và đã một thời gian dài tôi đã không thấy bực. Lý luận trôi theo lý luận. Rõ ràng là nếu tôi là một con người và chưa phải là một con số không, chừng nào tôi chưa biến thành một con số không, tôi vẫn sống và cho nên có thể đau khổ, giận dữ, và cảm thấy xấu hổ vì hành động của bản thân. Tốt. Nhưng ví dụ nếu tôi tự tử trong hai giờ tới, thì cô bé có ý nghĩa gì với tôi và cái mà tôi quan tâm lúc ấy về sự hổ thẹn hay bất kì thứ gì trên thế giới là gì? Tôi sẽ thành con số không, một con số không tròn trĩnh. Và có chăng là mọi sự nhận thức của tôi sẽ đều thôi không tồn tại nữa, và rằng không gì sẽ tồn tại nữa, không gì sẽ có thể gây một tác động nhỏ nhất đến cảm giác thương hại của tôi dành cho cô bé hay cảm giác hổ thẹn sau sự hèn hạ của mình? Và tôi đã dậm chân và quát mắng đứa trẻ đáng thương ấy với một giọng dữ tợn như muốn nói, “Mày thấy đấy, tao không chỉ không cảm thấy thương xót mà thậm chí còn làm những chuyện tàn nhẫn vô nhân tính, và tao có thể làm thế ngay lúc này, vì trong hai giờ nữa mọi thứ với tao sẽ tan biến.” Bạn có tin đây là lí do tại sao tôi quát mắng cô bé? Tôi gần như tin vậy. Tôi cảm giác như sự sống và cả thế giới lúc này đang phụ thuộc vào tôi. Thậm chí có thể nói là thế giới lúc này như được tạo ra chỉ cho mình tôi: Tôi bắn chết mình và thế giới sẽ không còn nữa, ít nhất với tôi. Chưa kể đến rằng hẳn sẽ không còn gì cho bất cứ ai, và ngay khi nhận thức của tôi tan biến, cả thế giới cũng sẽ tan biến ngay tập tức, như một bóng ma, như một thứ phụ kiện của sự nhận thức, nó sẽ biến mất như vậy, vì có thể tất cả trên thế giới này và tất cả mọi người đều chỉ là tôi. Tôi nhớ trong khi ngồi và suy ngẫm, tôi xoay quanh những câu hỏi ấy, chúng nối đuôi nhau ùa đến, thậm chí từ nhiều hướng khác nhau và tôi nghĩ tới một thứ khá mới mẻ. Ví dụ, một sự đắn đo đột nhiên xuất hiện trong tôi, rằng nếu tôi sống trên mặt trăng hay sao Hỏa, và gây ra những tội lỗi đáng hổ thẹn và ô nhục nhất có thể tưởng tượng ở đó, và dằn vặt và tủi nhục vì điều ấy nhiều đến mức cảm thấy như đang trong mộng, ác mộng, và nếu sau đó đến với Trái Đất tôi vẫn nhớ về những điều mình đã làm trên những hành tinh khác, và đồng thời biết rằng mình sẽ không bao giờ quay lại nơi ấy, thì khi nhìn thấy mặt Trăng từ Trái Đất – liệu điều ấy sẽ có ý nghĩa gì với tôi hay không? Liệu tôi có cảm thấy xấu hổ cho hành động ấy, hay không? Những câu hỏi ấy đều vớ vẩn và nhảm nhí, dù gì thì khẩu súng đã nằm đây, trước mặt tôi, và tôi biết điều ấy rồi sẽ xảy ra; nhưng chúng kích thích tôi và tôi nồng nhiệt với chúng. Cứ như tôi không thể chết ngay bây giờ mà không giải đáp được chuyện gì đó. Tóm lại, cô bé ấy đã cứu tôi, vì với những câu hỏi tôi đã trì hoãn phát súng. Trong lúc ấy, mọi thứ lắng xuống và bên gian phòng của gã thuyền trưởng: họ đã thôi chơi bài và nằm xuống cho giấc ngủ, càu nhàu và một cách lười nhác chấm dứt cuộc cãi vã. Và đúng ngay lúc ấy tôi đột nhiên chìm vào giấc ngủ, thứ chưa bao giờ xảy đến với tôi, ngay tại chiếc bàn, ngay trên chiếc ghế. Tôi chìm sâu vào giấc ngủ một cách vô thức. Những giấc mơ, như ai cũng biết, đều rất kỳ lạ: một thứ được dựng nên với độ rõ nét không thể tệ hơn, nhưng với sự tỉ mỉ của một nghệ nhân nữ trang vào đoạn cuối của mỗi chi tiết, và nhiều thứ khác bạn bỏ qua gần như không hề để ý đến – ví dụ, không gian và thời gian. Những giấc mơ dường như được tạo ra không phải từ lý trí mà từ ham muốn, không phải từ cái đầu mà từ trái tim, song lý trí của tôi đôi khi cũng tạo ra những thứ hay ho trong giấc ngủ! Song, những thứ khó hiểu cũng xảy ra trong giấc ngủ. Ví dụ như, anh trai tôi chết năm năm trước. Đôi khi tôi gặp anh ấy trong những giấc mơ: anh ấy xuất hiện trong mọi việc tôi làm, chúng tôi đã rất vui, nhưng tôi nhớ và hoàn toàn nhận thức được trong suốt giấc mơ, rằng anh trai của tôi đã chết và được đem chôn. Vậy thì tại sao, tôi lại không thấy ngạc nhiên rằng dù anh ấy đã chết, anh ấy lại vẫn ở đây với tôi, bận bịu với tôi? Tại sao lý trí tôi thừa nhận tất cả chuyện này? Nhưng đủ rồi. Tôi sẽ đi thẳng vào giấc mơ của tôi. Phải, tôi đã nằm thấy giấc mơ này, giấc mơ ngày ba tháng mười một. Người ta chọc tôi rằng đó chỉ là một giấc mơ. Nhưng chuyện ấy có khác gì dù nó là một giấc mơ hay không, nếu giấc mơ ấy cho tôi biết Sự Thật? Vì nếu bạn biết được sự thật và nhìn thấy nó, thì bạn sẽ biết đấy là sự thật và không có, và không thể khác được, cho dù bạn ngủ hay thức. Cho nên hãy cứ để nó là một giấc mơ, hãy cứ để nó như vậy, nhưng cuộc đời này, cuộc đời mà bạn hết mực tôn thờ, tôi đã muốn làm nó biến mất bằng cái chết, trong khi giấc mơ của tôi, giấc mơ của tôi – ôi, nó cho tôi một cuộc sống mới, mạnh mẽ, tuyệt vời. 

Hãy lắng nghe.


III


Tôi nói rằng tôi chìm vào giấc ngủ một cách vô thức cứ như trong lúc đang suy ngẫm về cùng những vấn đề ban nãy. Đột nhiên tôi mơ thấy mình rút ra khẩu súng lục và, ngồi đó, nhắm thẳng vào tim – trái tim của tôi, không phải đầu tôi; dầu tôi đã quyết định sẽ bắn vào đầu mình, và chính xác là ở ngay thái dương phải. Nhắm thẳng vào ngực, tôi đợi một hoặc hai giây, và cây nến của tôi, chiếc bàn, và bức tường đối diện tôi đột nhiên bắt đầu phồng lên và lay chuyển. Tôi vội vã bóp cò.

Trong những giấc mơ đôi khi bạn rơi từ một độ cao, hay bị đâm, hay bị đánh, nhưng bạn không bao giờ cảm thấy đau trừ khi một cách nào đó bạn đang thực sự thấy đau trên giường, thì lúc ấy bạn mới cảm nhận được đau đớn và nó gần như luôn luôn làm bạn tỉnh giấc. Trong giấc mơ của tôi cũng vậy: Tôi không cảm thấy đau, nhưng tôi tưởng tượng rằng, khi bóp cò, mọi thứ trong tôi rung chuyển và mọi thứ đột nhiên tối lại, và xung quanh tôi trở nên tối đen. Tôi như trở nên mù và điếc, và bây giờ tôi đang nằm trên thứ gì đó cứng, lưng duỗi dài, tôi không thấy gì và không thể tạo nên một cử động dù nhẹ nhất. Xung quanh tôi là tiếng bước chân và tiếng la hét, có giọng trầm trầm của gã thuyền trưởng và tiếng thét của bà chủ nhà – và đột nhiên một khoảng lặng, và bây giờ thì tôi đang được khiêng đi trong một chiếc hòm kín. Và tôi cảm thấy chiếc hòm lay chuyển và tôi bắt đầu suy nghĩ về chuyện ấy, đột nhiên lần đầu trong đời, tôi giật mình trước ý nghĩ là mình đã chết, mình đã chết, tôi biết điều đó và không hề đắn đo, tôi không thể nhìn, tôi không thể cử động, nhưng có thể cảm giác và suy nghĩ. Nhưng tôi nhanh chóng quen với điều ấy và, như thường lệ trong những giấc mơ, chấp nhận thực tế ấy mà không một lời cãi lại.

Và bây giờ, họ chôn tôi dưới lòng đất. Mọi người bỏ đi, tôi chỉ còn một mình, hoàn toàn một mình. Tôi không thể cử động. Đó giờ mỗi khi tôi tưởng tượng mình sẽ được chôn cất thế nào dưới mộ, sự liên kết duy nhất của tôi với ngôi mộ và cảm giác ẩm ướt và lạnh lẽo. Và bây giờ cũng vậy, tôi cảm thấy lạnh, đặc biệt ở đầu ngón chân, nhưng tôi không cảm thấy gì khác.

Tôi nằm đó và, kì lạ thay – không mong đợi thứ gì, chấp nhận không một lời bàn cãi rằng một người chết không có gì để mong đợi nữa. Nhưng ở đây thật ẩm ướt. Tôi không biết thời gian đã trôi bao lâu – một giờ, hay một vài ngày, hay nhiều ngày. Nhưng sau đó bỗng dưng một giọt nước len lỏi qua nắp hòm rơi vào mắt trái đang nhắm lại của tôi, một giọt nữa trong phút tiếp theo, rồi giọt thứ ba sau đó, và tiếp tục và tiếp tục, với khoảng cách một phút. Một sự đau đớn đột nhiên bùng lên trong tim tôi, và bỗng dưng tôi thực sự cảm thấy đau trong ấy. “Đó là vết thương của mình,” tôi nghĩ, “đó là vết súng của mình, có một viên đạn trong ấy…” Nước cứ nhỏ giọt, mỗi phút và vào ngay mắt trái của tôi. Và đột nhiên tôi kêu lên, không phải với một giọng với, vì tôi không cử động được, mà với cả sự tồn tại của mình, đến thế lực của những thứ đang xảy ra với tôi.

“Dù ngài là ai, nếu ngài ở đó, và nếu có thứ gì có lý hơn sắp xảy đến, xin hãy để nó xảy đến. Và nếu ngài đang trả thù tôi vì đã vô cớ tự tử với sự xấu xí và ngu xuẩn của sự tồn tại này, thì xin hãy biết rằng dù hình phạt nào có giáng xuống tôi, nó cũng chẳng sánh được với sự coi thường mà tôi sẽ lặng lẽ cảm thấy, thậm chí nếu hình phạt ấy có kéo dài một triệu năm!...”

Tôi kêu lên và lặng xuống. Sự im lặng kéo dài gần một phút, và một giọt nước rơi, nhưng tôi biết chắc chắn, tôi biết và tin rằng chẳng mấy chốc thôi mọi thứ sẽ thay đổi. Và rồi đột nhiên, chiếc hòm được mở ra. Tôi không biết nó được mở hay đào lên, nhưng tôi được một sinh vật đen kỳ lạ đem đi, và rồi thấy bản thân trong không trung. Tôi đột nhiên có thể nhìn thấy trở lại: trời đêm tối đặc, và chưa bao giờ, chưa bao giờ tối như vậy! Chúng tôi lướt trong không gian xa khỏi Trái Đất. Tôi không hỏi gì, tôi đợi và cảm thấy tự hào. Tôi cam đoan với bản thân rằng tôi không sợ và ngất ngây với sự sung sướng rằng tôi không sợ. Tôi không nhớ chúng tôi bay như vậy trong bao lâu và không thể tưởng tượng được: mọi thứ đang xảy ra như trong mơ, khi bạn vượt qua cả không gian và thời gian, và nguyên lý của sự sống và lý trí, và chỉ dừng lại ở tận cùng của những gì trái tim dám mơ đến. Tôi nhớ rằng mình đột nhiên thấy một ngôi sao nhỏ trong bóng tối. “Đó là sao Thiên Lang phải không?” tôi hỏi vì bỗng dưng không kìm lại được bản thân, tôi vốn ban đầu không muốn hỏi về bất cứ chuyện gì. “Không, đấy là ngôi sao ngươi sẽ thấy giữa những đám mây khi trở về,” sinh vật đang mang tôi đi trả lời. Tôi biết nó mang vẻ mặt của một con người. Lạ thay tôi không thích sinh vật này chút nào, tôi thậm chí cảm thấy ghét nó. Tôi đã mong đợi một sự không tồn tại hoàn toàn và bởi vậy đã bắn vào tim mình. Vậy mà bây giờ tôi lại đang trong vòng tay của một sinh vật – không phải con người, đương nhiên – nhưng lại sống và tồn tại: “À, thì ra là cuộc sống sau cái chết có tồn tại!” Tôi nghĩ với một sự nhẹ nhõm lạ thường của những giấc mơ, nhưng bản chất của trái tim vẫn còn đây với tôi, với mọi cung bậc của nó: “Và nếu tôi bắt buộc phải tồn tại một lần nữa,” tôi nghĩ, “và sống một lần nữa theo nguyện vọng của ai đó, tôi không muốn bị đánh bại và sỉ nhục!” “Ngài biết rằng tôi sợ ngài, và ngài khinh thường tôi vì điều đó,” tôi đột nhien nói với người bạn đồng hành của mình, không thể kìm lại câu hỏi đáng xấu hổ ấy, câu hỏi chứa đựng một lời thú tội, và cảm thấy sự xẩu hổ ấy như một kim đâm vào tim. Hắn không trả lời, nhưng tôi đột nhiên cảm thấy mình không hề bị khinh thường hay cười nhạo, hay thậm chí thương hại, và chuyến phiêu lưu này, với mục đích không rõ ràng và đầy bí ẩn, chỉ liên quan đến mình tôi. Nỗi sợ trỗi dậy trong tim tôi. Điều gì đó đang được nói với tôi, lặng lẽ và day dứt, từ người bạn đồng hành im lặng của tôi, và như đang đâm xuyên qua tôi. Chúng tôi lướt đi trong bóng tối và không gian không xác định. Tôi đã từ lâu thôi không thấy những chòm sao quen thuộc với đôi mắt nữa. Tôi biết rằng trong không gian bao la có những ngôi sao mà ánh sáng của chúng chỉ đến Trái Đất sau hàng ngàn hoặc hàng triệu năm. Có thể chúng tôi đã bay vượt qua đó rồi. Tôi đợi cái gì đó với một sự đau khổ trong tim. Và đột nhiên, tiếng gọi của một thứ cảm xúc hết sức quen thuộc lay động tôi: tôi bỗng dưng thấy mặt trời của chúng ta! Tôi biết rõ nó không thể nào là mặt trời của chúng ta, ngôi sao đã sinh ra Trái Đất, và chúng ta cách mặt trời của chúng ta một khoảng vô hạn, nhưng vì một lý do nào đó tôi nhận ra, với toàn bộ sự tồn tại của mình, rằng ngôi sao ấy giống y chang mặt trời của chúng ta, một bản sao hoàn hảo. Tiếng gọi của một thứ cảm xúc ngọt ngào rung lên trong tâm hồn tôi: năng lượng tự nhiên của ánh sáng, chính thứ ánh sáng ấy đã sinh ra tôi, vang vọng trong trái tim tôi và hồi sinh nó, và tôi cảm nhận được sự sống, lần đầu tiên kể từ lúc họ đặt tôi xuống mộ.

“Nhưng nếu đây là mặt trời, nếu đây chính là mặt trời của chúng tôi,” tôi thốt lên, “vậy thì Trái Đất ở đâu?” Và người bạn đồng hành của tôi chỉ tay về phía một ngôi sao nhỏ đang tỏa sáng trong bóng đêm với một màu xanh lục tuyệt đẹp. Chúng tôi bay thẳng đến nó.

“Và những bản sao như thế này thực sự tồn tại trong vũ trụ, đây có thật sự là quy luật của tự nhiên? … Và nếu đó là Trái Đất, nó có thật sự là Trái Đất của chúng tôi… Trái Đất đáng thương, tội nghiệp, nhưng thân thương và vĩnh viễn yêu quý, đã sinh ra thứ tình yêu dằn vặt trong ngay cả những đứa con vô ơn nhất của nó?...” Tôi thốt lên, rung lên với thứ tình yêu nồng nhiệt không thể kìm lại được cho Trái Đất mà trước đó tôi đã từ bỏ. Hình ảnh của đứa bé mà tôi đã làm tổn thương chợt hiện ra trước mặt tôi.

“Ngươi sẽ thấy tất cả,” người bạn đồng hành của tôi trả lời, với một nỗi buồn trong giọng nói. Nhưng chúng tôi nhanh chóng tiến tới hành tinh ấy. Nó đang ở trước mắt tôi, tôi có thể thấy đại dương, hình dáng của châu Âu, và đột nhiên một cảm giác lạ lẫm, một sự ghen tua to lớn dâng lên trong tim tôi: “Làm sao lại có thể có một bản sao như thế này, và để làm gì chứ? Tôi yêu, tôi chỉ có thể yêu Trái Đất mà tôi đã từ bỏ, nơi vết máu của tôi vẫn còn đó, khi tôi, đứa con vô ơn, kết liễu đời mình với một phát súng vào ngay tim. Nhưng chưa bao giờ, tôi chưa bao giờ thôi yêu Trái Đất ấy, và thậm chí vào đêm ấy, khi tôi rời bỏ nó, có thể tôi đã yêu nó hơn bao giờ hết. Đau đớn có tồn tại trên Trái Đất mới này? Trên Trái Đất của chúng ta, chúng ta chỉ có thể thực sự yêu với sự đau đớn và bằng sự đau đớn. Nếu không, chúng ta không thể yêu và chúng ta cũng chẳng biết thứ tình yêu nào khác. Tôi muốn đau khổ, đau khổ để yêu. Tôi muốn, tôi thèm khát, được hôn, phút giây này, trút hết nước mắt cho Trái Đất mà tôi đã rời bỏ, và tôi không muốn, tôi không chấp nhận cuộc sống trên một Trái Đất nào khác!...”

Nhưng người bạn đồng hành đã bỏ rơi tôi từ lúc nào. Bỗng dưng, với một chút vô thức, tôi đang đứng trên Trái Đất này, trong ánh sáng rực rỡ của một ngày nắng đẹp, đáng yêu như thiên đường. Tôi đamg đứng, có vẻ như, trên một hòn đảo trong quần đảo Hy Lạp trên Trái Đất của chúng ta, hay nơi nào đó trên một bờ biển liền kề với quần đảo ấy. Ôi mọi thứ đều giống như trên Trái Đất, nhưng dường như mọi nơi đều tỏa ra không khí lễ hội và một sự hân hoan to lớn và thiêng liêng. Một màu xanh ngọc nhẹ nhàng vỗ vào bờ biển và hôn lên đó với một tình yêu – thuần khiết, rõ rệt, gần như có tâm thức. Những thân cây cao đẹp vươn lên dồi dào những hoa và vô vàn chiếc lá mà tôi tin là đang chào đón tôi với những âm thanh nhẹ dịu, như những lời yêu thương. Cỏ lấp lánh với những cánh hoa rực rỡ thơm phức. Từng đàn chim chao lượn trên bầu trời, không hề sợ tôi, đậu trên vai và tay của tôi, vui vẻ vỗ cánh với tôi. Và cuối cùng tôi cũng được nhìn thấy những cư dân của hành tinh hạnh phúc này. Họ đến với tôi, đứng xung quanh tôi, hôn tôi. Những đứa con của mặt trời, những đứa con của mặt trời – ôi, họ mới đẹp làm sao! Chưa bao giờ trên Trái Đất tôi thấy một sự đẹp đẽ trong con người đến như vậy. Có thể chỉ trong những năm đầu đời của một đứa trẻ, ta mới có thể tìm thấy một thoáng mơ hồ của vẻ đẹp ấy. Đôi mắt của những con người này tỏa sáng với sự rực rỡ. Gương mặt họ tỏa ra lý trí và một thứ tâm thức đong đầy đến độ thanh thản. Những gương mặt vui vẻ, một niềm vui trẻ thơ trong từng con chữ và giọng nói của những con người ấy. Ôi, ngay lập tức, với một cái nhìn lướt qua những khuôn mặt ấy, tôi đã hiểu tất cả, tất cả! Đây là một Trái Đất chưa bị vấy bẩn với những con người chưa bị vấy bẩn. Họ sống trong một thiên đường mà theo những truyền thuyết của loài người, tổ tiên của chúng ta đã từng sống, điểm khác biệt duy nhất là cả Trái Đất này đều cùng là một thiên đường. Những người này, cười đùa, vây quanh tôi và chạm vào tôi; họ dẫn tôi theo và ai trong họ cũng muốn làm tôi thấy thoải mái. Ôi, họ chẳng hỏi tôi về một cái gì, nhưng tôi có cảm giác họ đã biết thứ, và nhanh chóng muốn xóa đi sự đau khổ trên khuôn mặt tôi.


IV


Bạn thấy đấy, một lần nữa: hãy cứ để nó là một giấc mơ! Nhưng cảm giác của tình yêu từ những con người trong sạch và đẹp đẽ này sẽ luôn ở trong tôi mãi về sau, và tôi cảm thấy tình yêu của họ tưới lên mình đến bây giờ. Tôi đã tận mắt thấy họ, biết họ và tôi tin rằng tôi yêu họ, tôi có thể chịu mọi đau khổ vì họ. Ôi ngay lúc đó, tôi hiểu rằng tôi sẽ không bao giờ hiểu họ; với tôi, một người Nga và một người từ Petersburg hiện đại và tiến bộ, thật không thể hiểu được tại sao rằng họ, trong khi biết thật nhiều, lại không có một nền khoa học như chúng ta. Nhưng tôi sớm nhận ra rằng hiểu biết của họ được đong đầy và bồi đắp bởi nhiều khía cạnh sâu sắc hơn chúng ta, và những khát vọng của họ cũng khác với chúng ta. Họ không mong muốn gì và luôn bình yên, họ không khát khao đạt được một sự hiểu biết về cuộc sống, như chúng ta, vì cuộc sống của họ đã đầy đủ. Nhưng hiểu biết của họ sâu sắc hơn và cao hơn khoa học của chúng ta; bởi khoa học tìm kiếm lời giải thích cho sự sống và khoa học khao khát muốn hiểu tường tận nó, với mục đích dạy con người cách sống; nhưng họ biết cách sống thậm chí không cần khoa học, và tôi hiểu điều ấy, nhưng tôi không thể hiểu được những hiểu biết của họ. Họ chỉ tôi cây cối, và họ nhìn chúng với một giới hạn của tình yêu mà tôi không tài nào hiểu được: họ nói chuyện với chúng như thể chúng cũng là đồng loại của họ. Và bạn biết đấy, có thể tôi sẽ không nhầm nếu nói rằng đã nói chuyện với chúng! Phải, họ đã tìm được ngôn ngữ của chúng, và tôi tin rằng cây cối hiểu họ. Họ nhìn mọi thứ trong tự nhiên một cách như nhau – những loài thú vật sống với họ trong hòa bình, chúng không tấn công họ, và chúng yêu họ, bị thuần phục bởi tình yêu của họ. Họ chỉ tôi những vì sao và nói về chúng với tôi, và mặc dù không hiểu nhưng tôi tin rằng họ liên kết với những vì tinh tú ấy, không chỉ bằng ý nghĩ, mà bằng sự sống. Ôi, những con người ấy thậm chí chẳng cố gắng khiến tôi hiểu họ, họ yêu thương tôi kể cả khi tôi không hiểu họ, nhưng mặt khác tôi biết họ cũng sẽ không bao giờ hiểu tôi, và vì vậy tôi gần như chưa bao giờ nói với họ về Trái Đất của chúng ta. Tôi hôn mặt đất mà họ đang sống trên, trước mặt họ, và thầm yêu thương họ, và họ thấy điều ấy giúp tôi yêu thương họ mà không phải cảm thấy xấu hổ. Họ không xót xa tôi những lúc tôi hôn chân họ trong nước mắt, vui mừng thầm biết họ sẽ đáp lại với một sức mạnh của tình yêu. Đôi khi tôi ngạc nhiên tự hỏi: làm sao họ có thể, tất cả những chuyện này, trong khi không làm một con người như tôi thấy xúc phạm, và chưa bao giờ gợi lên trong một con người như tôi bất kỳ cảm giác ghen tuôn hay đố kỵ? Nhiều lần tôi tự hỏi, làm sao một kẻ khoác lác và dối trá như tôi, lại có thể không khoe khoang với họ về kiến thức của mình – cái mà họ hiển nhiên không có một chút khái niệm nào – không muốn làm họ ngạc nhiên với nó, trừ khi tôi không còn yêu họ nữa? Họ nô đùa và vui vẻ như trẻ con. Họ dạo quanh những khu rừng đẹp đẽ của họ, họ hát những bài ca tuyệt đẹp, họ ăn những thứ đạm bạc – trái cây từ cây cối, mật ong từ rừng và sữa từ những con vật yêu thương họ. Họ lao động ít và nhẹ nhàng cho thức ăn và quần áo. Giữa họ là tình yêu, và trẻ con ra đời, nhưng tôi chưa bao giờ thấy trong họ bất cứ động cơ nào của thứ nhục dục tàn ác mà gần như tất cả mọi người trên Trái Đất của chúng ta có, mỗi và từng người, và đó là nguồn gốc duy nhất của hầu hết mọi tội lỗi của nhân loại. Họ vui mừng vì có những đứa con họ có, chia sẻ với chúng hạnh phúc của họ. Giữa họ không có gây gỗ hay ghen ghét, họ thậm chí không hiểu nó nghĩa là gì. Con họ là con của mọi người, vì họ là một đại gia đình. Họ gần như không có bệnh tật, mặc đù cái chết có tồn tại; nhưng những người già chết một cách lặng yên, như chìm vào giấc ngủ, xung quanh là những lời tạm biệt từ con cháu, phù hộ cho họ, mỉm cười với họ, và đáp nhận cái cười tạm biệt từ chính họ. Tôi không thấy đau buồn hay nước mắt ở đó, chỉ có tình yêu dâng trào đến mức vui mừng, nhưng một sự vui mừng nhẹ nhàng, ngập tràng, sâu lắng. Có người còn nghĩ rằng họ kết nối được với người chết thậm chí sau cái chết và mối hàn trần tục giữa họ không thể bị chia cắt bởi cái chết. Họ gần như không hiểu gì khi tôi hỏi họ về cuộc sống vĩnh hằng, nhưng trong vô thức họ có vẻ tin chắc vào điều ấy đến mức nó không còn là một câu hỏi với họ. Họ không có đền thờ, nhưng họ có những mối liên hệ cốt yếu và vĩnh cửu với toàn bộ vũ trụ; họ không có đức tin, nhưng thay vào đó là một hiểu biết vững chắc rằng khi những niềm vui trần tục của họ đạt đến giới hạn của trần giới, khi ấy họ sẽ đến với, cả sự sống và cái chết, mở rộng liên kết của họ với toàn bộ vũ trụ. Họ chờ giây phút ấy, nhưng không nao nức hay đau khổ vì điều ấy, mà như đã có nó trong những linh cảm của trái tim, cái mà họ sẽ truyền cho con cái. Mỗi tối, trước khi đi ngủ, họ thích hát những điệp khúc êm đềm và hài hòa. Trong những bài hát ấy họ bộc lộ tất cả những cảm xúc mà một ngày sắp tàn mang đến cho họ, ca tụng nó, và tạm biệt nó. Họ ca tụng thiên nhiên, mặt đất, biển cả, rừng rậm. Họ thích sáng tác bài hát về lẫn nhau và khen ngợi nhau như trẻ con; chúng là những bài hát đơn giản nhất, nhưng chúng chảy ra từ trái tim và đi qua những trái tim khác. Đó là một loại tình yêu chung. Và một số trong những bài hát của họ, trang nghiêm và vui vẻ, tôi khó mà hiểu được. Trong khi tôi hiểu ca từ, tôi không bao giờ có thể thấm sâu đầy đủ ý nghĩa của chúng. Chúng cứ như không thể đi vào đầu tôi, nhưng dường như lại dần lan tỏa một cách vô thức trong tim tôi. Tôi thường bảo họ rằng rất lâu về trước tôi đã có linh cảm về tất cả những chuyện này, rằng những niềm vui và hân hoan này đã từng nói chuyện với tôi trong một cuộc gọi gấp gáp, đôi khi tới mức đau buồn không chịu được; rằng tôi đã có linh cảm về họ và hạnh phúc của họ trong những giấc mơ của trái tim và trong những mộng tưởng của tâm trí, rằng tôi thường không thể nhìn mặt trời lặn trên Trái Đất của mình mà không rơi lệ… Rằng sự thù ghét của tôi với con người ở Trái Đất ấy luôn mang đến đau khổ: tại sao tôi không thể ghét họ mà không yêu họ, tại sao không thể không tha thứ cho họ, và tại sao trong tình yêu của tôi dành cho họ lại có sự đau khổ, tại sao tôi không thể yêu họ mà không ghét họ? Họ lắng nghe tôi, và tôi thấy rằng họ không thể hình dung tôi nói về cái gì, nhưng tôi không hối hận đã nói chuyện ấy với họ: Tôi biết họ hiểu mọi kịch tính trong sự đau khổ của tôi vì những con người mà tôi đã bỏ rơi. Phải, khi họ nhìn tôi với đôi mắt thân thương bao trùm bởi tình yêu, khi tôi cảm thấy trong sự hiện diện của họ, trái tim của tôi cũng trở nên trong sạch và thành thực như họ, tôi không hối hận việc mình không hiểu họ. Cảm giác của sự sống đong đầy lấy đi hơi thở của tôi, và tôi âm thầm tôn sùng họ.

Ôi, lúc này mọi người cười vào mặt tôi và cam đoan với tôi rằng thậm chí trong mơ người ta cũng không thể thấy những chi tiết mà tôi đang kể, rằng trong giấc mơ của mình tôi chỉ thấy hoặc cảm giác một cảm giác nhất định sinh ra bởi trái tim trong cơn mê sảng, và rằng tôi bịa ra những chi tiết ấy khi thức dậy. Và khi tôi bảo họ có lẽ là như vậy thật – Chúa ơi, họ cười vào mặt tôi và cười vào sự đần độn của tôi! Ồ, phải, đơn nhiên, tôi bị cảm giác của giấc mơ ấy chiếm lấy, và nó tồn tại trong vết thương vấy máu của tôi ngay quả tim: nhưng những hình ảnh và hình dạng chân thực của giấc mơ ấy, chúng - những thứ mà tôi thực sự thấy trong giấc mơ, đã được khắc họa một cách thật hài hòa, mê hoặc và đẹp đẽ, và chân thật đến mức cả khi thức dậy, tôi dĩ nhiên cũng không thể diễn tả được với vốn từ ngữ yếu ớt của chúng ta, cho nên chúng hẳn đã lu mờ phần nào trong tâm trí tôi, và chắc vì vậy, có lẽ sau đó tôi đã vô thức ép buộc bản thân tưởng tượng ra những chi tiết ấy; và dĩ nhiên đã bóp méo chúng, đặc biệt với mong muốn thiết tha được nhanh chóng kể lại chúng bằng cách nào đó của tôi. Và làm sao tôi không tin rằng tất cả những điều ấy là sự thật? Và có lẽ, một ngàn lần tươi sáng hơn, hân hoan hơn những gì tôi đang kể? Hãy để nó là một giấc mơ, mặc dù nó chỉ có thể là một giấc mơ. Bạn biết đó, tôi sẽ nói với bạn một bí mật: có thể nó không hề là một giấc mơ! Vì một chuyện xảy ra, một chuyện quá mức thực đến nổi trong mơ cũng không tưởng tượng được. Cứ cho rằng giấc mơ ấy là sản phẩm của trái tim tôi, nhưng liệu trái tim tôi có khả năng sinh ra cái sự thật tồi tệ đã xảy đến sau đó? Làm sao tôi có thể tưởng tượng hay bịa đặt ra nó từ trái tim mình? Làm thế nào mà trái tim tầm thường và cái đầu nhỏ bé, thất thường của tôi có thể tiết lộ một sự thật như thế? Ôi, các bạn hãy tự mà phán xét: Tôi đã che giấu đến bây giờ, nhưng lúc này tôi sẽ kể hết sự thật. Đó là, tôi đã… tha hóa tất cả bọn họ!


V


Phải, phải, mọi thứ kết thúc bằng việc tôi tha hóa bọn họ! Chuyện ấy xảy ra thế nào tôi không biết, nhưng tôi nhớ rất rõ. Giấc mơ vượt qua ngàn năm và để lại tôi một cảm giác của toàn bộ. Tôi chỉ biết rằng nguyên nhân của sự sụp đổ ấy là tôi. Như một con giun xoắn bẩn thíu, như một nguyên tử lây dịch hạch khắp các quốc gia, tôi đã lây bệnh cho cả Trái Đất hạnh phúc và đã từng trong trắng ấy với chính bản thân mình. Họ học được cách nói dối và bắt đầu thích nói dối và biết được nét đẹp cũng lời nói dối. Hoặc, có lẽ nó bắt đầu một cách ngây thơ với một câu đùa, một lời tán tỉnh, một vở kịch tình yêu, cõ lẽ, thật vậy, với một nguyên tử, nhưng nguyên tử của lời nói dối đâm xuyên qua trái tim họ, và họ thích điều đó. Và rồi nhục dục nhanh chóng được sinh ra, nhục dục sinh ra đố kỵ, và đố kỵ - độc ác… Ôi, tôi không biết, tôi không nhớ, nhưng sau đó, rất nhanh sau đó, giọt máu đầu tiên rơi xuống; họ kinh ngạc và sợ hãi, và bắt đầu phân tán, chia cắt. Đồng minh xuất hiện, nhưng giờ thì họ chống lại nhau. Quở mắng và phỉ báng xuất hiện. Họ biết đến sự tủi nhục, và tủi nhục trở thành một đức tính. Khái niệm danh dự ra đời, và mỗi đồng minh treo cao những ban-nơ của họ. Họ bắt đầu tàn sát thú vật, và thú vật dần rút lui xa khỏi họ, vào trong rừng và trở thành kẻ thù của họ. Họ bắt đầu đau khổ vì chia cắt, vì bị cô lập, vì cá nhân, vì của tôi và của bạn. Họ bắt đầu nói những ngôn ngữ khác nhau. Họ biết đến đau buồn và dần yêu sự đau buồn, họ thèm khát đau khổ và nói rằng sự thật chỉ có thể đạt được bằng đau khổ. Rồi khoa học ra đời trong họ. Khi họ trở nên thâm độc, họ bắt đầu nói đến tình hữu nghị và tính người và hiểu những ý tưởng ấy. Khi họ trở thành tội phạm, họ phát minh ra công lý và quy ra những bộ luật cho chính họ, và để duy trì và đảm bảo những bộ luật ấy họ phát minh ra máy chém. Họ gần như không nhớ gì về những thứ họ đã mất, và thậm chí không muốn tin rằng họ đã một thuở từng ngây thơ và hạnh phúc. Họ thậm chí cười vào khả năng rằng đã từng có sự hạnh phúc tuyệt đối và gọi đó là một giấc mơ. Họ thậm chí không thể hình dung nó với hình dạng và hình ảnh, nhưng – một điều lạ và đáng kinh ngạc – dầu mất hết đức tin vào hạnh phúc thuở ban đầu, và gọi đó là một câu chuyện cổ tích, họ ao ước được trở nên trong trắng và hạnh phúc trở lại, một lần nữa, đến mức họ quỳ lại trước những khao khát của con tim họ như những đứa trẻ, họ tôn sùng những khao khát ấy, họ xây lên đền đài và bắt đầu cầu nguyện theo ý niệm của họ, theo khao khát của họ. Trong khi vẫn hoàn toàn tin vào sự không hiện thực và bất khả thi của chúng, họ yêu chúng trong nước mắt và tôn thờ chúng. Song, nếu họ có khả năng trở về với trạng thái trong trắng và hạnh phúc mà họ đã đánh mất, hoặc nếu ai đó đột nhiên chỉ cho họ thấy và hỏi họ có muốn quay trở lại lúc ấy không, họ chắc chắn sẽ đáp không. Họ trả lời tôi: “Chúng tôi có thể lừa lọc, dối trá và bất công, chúng tôi biết điều ấy và thương khóc cho điều ấy, đau buồn vì điều ấy; chúng tôi tra tấn và trừng phạt chính mình có lẽ hơn cả người thẩm phán khoan dung ấy, người mà sẽ xét xử chúng tôi, người mà chúng tôi không biết tên. Nhưng chúng tôi có khoa học, và nhờ đó chúng tôi sẽ lại tìm được sự thật, nhưng bây giờ chúng tôi sẽ chấp nhận một cách có ý thức, kiến thức cao hơn cảm xúc và sự nhận thức về cuộc sống thì cao hơn cuộc sống. Khoa học sẽ cho chúng tôi sự thông thái, thông thái sẽ tìm ra những quy luật, và sự hiểu biết về quy luật của hạnh phúc thì cao hơn hạnh phúc.” 

Đó là những gì họ từng nói, và sau khi nói ra những lời ấy, họ yêu bản thân hơn bất kỳ ai, và họ không thể làm cách khác. Mỗi người trong họ trở nên ghen tỵ với chính bản thân mình đến mức họ cố hết sức hạ thấp và sỉ nhục người khác, và coi đó là một điều cốt yếu trong cuộc sống. Nô lệ xuất hiện, thậm chí nô lệ tình nguyện: kẻ yếu sẵn sàng phục tùng kẻ mạnh, chỉ với mục đích để giúp họ đè bẹp những kẻ yếu hơn. Những vị thánh thần xuất hiện, họ đến với những con người này trong nước mắt và nói với họ về sự ngạo mạn của họ, sự thiếu cân bằng và hài hòa, sự hổ thẹn đã mất đi của họ. Họ bị nhạo báng hoặc ném đá. Những giọt máu thiêng liêng đổ xuống trước ngưỡng cửa những đền đài. Rồi xuất hiện những người bắt đầu suy nghĩ cách đem mọi người lại với nhau, để mọi người, vừa yêu thương bản thân hết mức có thể, vừa không gây trở ngại cho những kẻ khác, và mọi người có thể sống với nhau hài hòa trong một thứ gọi là xã hội. Chiến tranh được sinh ra từ ý tưởng đó. Tất cả chiến binh đều tin chắc rằng khoa học, học thức và bản năng bảo vệ bản thân cuối cùng sẽ thúc đẩy con người kết lại thành một xã hội hài hòa và hợp lý; và trong lúc ấy đã thúc đẩy những kẻ ‘khôn ngoan’ muốn loại trừ càng sớm càng tốt những kẻ ‘không khôn ngoan’ và chưa hiểu tư tưởng của họ, để những kẻ ấy không thể ngăn cảng thắng lợi của họ. Nhưng bản năng bảo vệ bản thân của họ bị nhụt đi; những kẻ kiêu ngạo và dâm dục xuất hiện, họ muốn tất cả. Và để đạt được mọi thứ họ không ngại phạm tội, và khi không thành công, họ cũng không ngại tự tử. Tôn giáo xuất hiện, sùng bái sự không tồn tại và tự hủy hoại bản thân vì một hòa bình vĩnh hằng trong hư không. Cuối cùng, những con người này trở nên mệt mỏi với sự cực nhọc vô nghĩa ấy, và nỗi đau hằng trên khuôn mặt họ, và những người này cho rằng đau khổ là cái đẹp, và chỉ khi đau khổ những tư tưởng mới tồn tại. Đau khổ thấm đẫm trong những câu hát. Tôi đi giữa họ, siết chặt tay và khóc thay cho họ, nhưng có lẽ tôi yêu họ hơn cả lúc trước, khi khổ đau không có trên khuôn mặt họ và khi họ còn ngây thơ và đẹp đẽ. Tôi yêu Trái Đất đã bị vấy bẩn này của họ, nhiều hơn cả khi nó còn là thiêng đường, chỉ vì nỗi buồn đã xuất hiện ở đây. Ôi, tôi đã luôn yêu nỗi buồn và đau khổ, nhưng chỉ cho bản thân, bản thân tôi, trong khi tôi khóc than họ, thương xót họ. Tôi dang tay ra ôm lấy họ, trong tuyệt vọng, tôi tự trách, nguyền rủa và ghê tởm bản thân mình. Tôi bảo họ rằng, tôi, chỉ tại tôi mà mọi chuyện này mới xảy ra; rằng tôi đã đem đến cho họ sự tha hóa, sự đầu độc và lời nói dối! Tôi cầu xin họ đóng đinh tôi vào thánh giá, tôi dạy họ cách làm cây thánh giá. Tôi không thể, tôi không có sức mạnh để tự giết cái thân này, nhưng tôi muốn chịu đau khổ thay họ, tôi ao ước được chịu đau khổ, tôi ao ước máu của mình chảy đến giọt cuối cùng vì sự đau khổ này. Nhưng họ chỉ cười tôi và cuối cùng coi tôi như một kẻ điên cuồng tín. Họ tha lỗi cho tôi, họ bảo họ đã nhận lấy những gì họ muốn, và mọi thứ không thể nào khác được. Cuối cùng, họ bảo tôi đã trở nên nguy hiểm cho họ và họ sẽ tống tôi vào trại điên nếu tôi không ngậm mồm lại. Lúc này một nỗi đau đâm xuyên tâm hồn tôi với một sức mạnh khiến trái tim tôi bị siết lại, và tôi cảm thấy như mình sắp chết, và tại đây… tôi thức dậy.

Trời đã sáng, nắng chưa lên nhưng lúc ấy khoảng sáu giờ. Tôi thức dậy trên chiếc ghế bành, cây nến đã cháy hết, mọi người bên phòng gã thuyền trưởng vẫn còn ngủ , và xung quanh tôi là một sự im lặng hiếm thấy trong căn hộ của chúng tôi. Đầu tiên, tôi nhảy người lên một cách ngạc nhiên; chuyện này chưa từng xảy ra với tôi trước đây, kể cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất: tôi chưa từng ngủ gục trên ghế như vậy bao giờ. Tại đây đột nhiên, trong lúc tôi đang đứng và định hình lại tâm trí – bỗng nhiên tôi bắt gặp khẩu súng lục của mình, sẵn sàng, đạn nạp đầy – nhưng tôi ngay lập tức đẩy nó ra xa. Ôi, cuộc sống, cuộc sống lúc này! Tôi nâng cánh tay mình lên và thốt lên sự thật vĩnh cửu; không phải thốt lên, mà khóc; hạnh phúc, niềm hạnh phúc vô bờ nâng cả tâm hồn tôi dậy. Phải, cuộc sống và – thuyết giáo (*)! Tôi quyết định sẽ thuyết giáo vào ngay khoảnh khắc ấy, và đơn nhiên, cho đến cuối đời mình! Tôi sẽ đi thuyết giáo, tôi muốn thuyết giáo – mà thuyết giáo cái gì mới được? Sự thật, vì tôi đã thấy nó, tôi tận mắt thấy nó với đôi mắt của chính tôi, thấy mọi huy hoàng của nó!

(*): Nguyên văn: проповедь, khá gần với chữ ‘preaching’ trong tiếng Anh. Mình không thể tìm từ nào gần nghĩa hơn trong tiếng Việt, thứ lỗi nhé!

Và rồi, từ đó tôi đã đi thuyết giáo! Còn gì nữa – tôi thương yêu những con người cười vào tôi hơn cả thảy. Tại sao như vậy tôi không biết và không thể giải thích, nhưng cứ để nó như vậy. Họ nói tôi lú lẫn rồi, và nếu tôi đúng là tôi lú lẫn thật, vậy tôi sẽ ra sao về sau này? Sự thật chân chính: giờ tôi đã lú lẫn rồi, và có thể sẽ còn tệ hơn sau này. Và dĩ nhiên tôi sẽ càng lú lẫn thêm vài lần nữa trước khi tôi học được cách thuyết giáo, học cách lựa từ ngữ và ý điều, bởi vì điều ấy rất khó. Tôi giờ thấy rõ như ban ngày, nhưng nghe này: có mà ai không lú lẫn cơ chứ? Và song, mọi người tìm kiếm một và chỉ một thứ, ít nhất là mọi người cố gắng vì một và chỉ một thứ, từ nhà hiền triết đến kẻ cướp cuối cùng, chỉ là bằng những con đường khác nhau. Đây là một sự thật lâu đời, nhưng cái mới là đây: tôi không thể lú lẫn. Vì tôi đã thấy sự thật, tôi đã thấy và tôi biết rằng con người có thể đẹp đẽ và hạnh phúc mà không cần phải rời bỏ Trái Đất. Tôi sẽ không và không bao giờ có thể tin tội lỗi là trạng thái bình thường của con người. Và cả thảy bọn họ chỉ cười vào niềm tin ấy của tôi. Nhưng làm sao tôi có thể không tin: tôi đã thấy sự thật – không phải trí óc tôi tưởng tượng ra nó, mà tôi thấy nó, tôi đã thấy nó, và hình ảnh sống động của nó đong đầy trong tâm hồn tôi mãi mãi. Tôi thấy nó trong một sự nguyên vẹn khó tin đến mức tôi không thể tin rằng con người không thể thấy được nó. Và rồi, làm sao tôi có thể lú lẫn chứ? Tôi sẽ nói lạc đề đi, đơn nhiên rồi, thậm chí đến vài lần, và có thể tôi sẽ nói bằng lời của người khác, nhưng sẽ không lâu: hình ảnh chân thực của cái tôi đã thấy sẽ luôn bên tôi và sẽ luôn sửa sai và chỉ đường tôi. Ôi, tôi cảm thấy mạnh mẽ, tôi cảm thấy tươi mát, tôi sẽ đi, đi, dù nó có là một ngàn năm đi nữa. Bạn biết đấy, ban đầu, tôi thậm chí đã muốn dấu đi, rằng tôi đã tha hóa bọn họ, nhưng đó là một sai lầm – sai lầm đầu tiên! Nhưng sự thật thì thầm với tôi rằng tôi đang nói dối, và che bảo và chỉ đường tôi. Nhưng làm sao để tạo nên thiêng đường – tôi không biết, bởi vì tôi không thể diễn giải bằng lời được. Sau giấc mơ, tôi mất hết từ ngữ. Ít nhất là những từ chính, những từ cần thiết nhất. Nhưng cứ mặc: tôi sẽ đi và tôi sẽ cứ nói, không ngừng, vì sau tất cả tôi đã thấy nó với chính đôi mắt này của mình, tôi nghĩ mình không thể kể lại hết những gì tôi thấy. Nhưng đó là thứ những kẻ chế giễu không hiểu được: “Ông ấy nằm mơ,” họ nói, “mê sảng, ảo giác.” Ôi! Cứ như điều ấy nghe thông minh lắm? Và họ thật tự đắc! Một giấc mơ? Cái gì là một giấc mơ? Và không phải cuộc sống của chúng ta là một giấc mơ sao? Tôi sẽ nói thêm: hãy cứ cho nó không bao giờ, hãy cứ cho nó không bao giờ thành hiện thức, và hãy cho rằng thiêng đường không tồn tại (cái này thì tôi có thể hiểu!) – nhưng tôi vẫn sẽ thuyết giáo. Và thật giản đơn: trong một ngày, trong một giờ - mọi thứ đều có thể làm được! Điều cốt yếu là – yêu thương người khác như bản thân, đó là điều cốt yếu, và tất cả chỉ có vậy, không cần thứ gì khác: bạn sẽ tìm ra cách dàn xếp mọi thứ ngay. Và đây chỉ là một sự thật cổ xưa, được lặp lại và đọc cả tỷ lần, nhưng vẫn chưa bao giờ có cơ hội nảy mầm trong chúng ta. “Sự nhận thức cuộc sống thì cao hơn cả cuộc sống, sự hiểu biết về những quy luật của hạnh phúc thì cao hơn cả hạnh phúc” – đó chính là cái ta cần phải chống lại! Và tôi sẽ làm điều đó. Giá như mọi người muốn điều đó, thì mọi thứ đều có thể.


Và tôi đã tìm thấy đứa bé đó… Và tôi sẽ đi! Tôi sẽ đi!

Comments